Mittwoch, 24. Juli 2013

DỊCH LÝ VIỆT NAM

June 24, 2008 by vndichlyhoi

VỤ NỔ BIG BANG VÀ DỊCH LÝ VIỆT NAM

Trong lời nói đầu cuốn A Brief History of Time tác giả là Nhà Bác Học Stephen Hawking đương đại được giới Khoa Học coi là Albert Einstein thứ 2 và Giáo sư Carl Sagan viết lời tưạ có những phát biểu :
Hàng ngày chúng ta sinh hoạt trong khi hầu như không hiểu biết gì về thế giới. Chúng ta chỉ quan tâm chút ít về cái bộ máy phát ra ánh sáng mặt trời mà nhờ đó mới có sự sống, về cái trọng lực buộc chặt chúng ta trên trái đất mà nếu không có nó thì chúng ta sẽ bị thảy lăn lóc trong không gian, hoặc về những nguyên tử cấu tạo nên thân thể, và chúng ta tùy thuộc vào sự ổn cố của chúng.
Ngoại trừ trẻ con (chúng ngây thơ nên không ngần ngại hỏi những câu hỏi quan trọng), chỉ có một số ít trong chúng ta dành nhiều thì giờ để thắc mắc tại sao thiên nhiên lại như thế này thế nọ; vũ trụ phát sinh từ đâu, hay là xưa nay nó vẫn vĩnh hằng hiện diện ở đây; phải chăng tới một ngày nào đó thời gian sẽ trôi ngược chiều và những hậu quả sẽ đi trước những nguyên nhân; hoặc phải chăng có những giới hạn tối hậu đối với những gì mà con người có thể hiểu biết. Có những trẻ em – và tôi đã từng gặp một số – muốn biết một hố đen trong vũ trụ giống như thế nào; bộ phận nhỏ nhất của vật chất là gì; tại sao chúng ta nhớ được quá khứ mà không phải tương lai; nếu ở thời sơ khai có sự hỗn loạn thì làm thế nào mà hiện tại lại đang có trật tự như chúng ta thấy; và tại sao lại có một vũ trụ.
Carl Sagan Đại Học Cornell
Ithaca, New York
Tôi đã quyết định thử viết một cuốn sách phổ thông về không gian và thời gian sau khi tôi phụ trách khóa giảng Loeb tại Đại Học Harvard năm 1982. Trước đây đã có một số đáng kể những cuốn sách về vũ trụ ở thời sơ khai và những hố đen, từ những sách rất hay, như cuốn Ba Phút Đầu Tiên (The First Three Minutes) của Steven Weinberg, cho tới những sách rất dở mà tôi sẽ không nêu tên. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng không có cuốn sách nào trong số đó thực sự đề cập những vấn đề đã xui khiến tôi nghiên cứu về vũ trụ luận và thuyết lượng tử: Vũ trụ đến từ đâu? Nó đã bắt đầu như thế nào và tại sao? Nó có sẽ đi tới kết thúc hay không, và nếu kết thúc thì sẽ như thế nào? Đây là những câu hỏi đáng được tất cả chúng ta quan tâm. Nhưng khoa học hiện đại đã trở thành kỹ thuật hóa đến nỗi rằng chỉ có một số ít chuyên gia có thể nắm vững toán học dùng để mô tả những vấn đề đó. Tuy nhiên, những ý niệm cơ bản về khởi thủy và vận mệnh của vũ trụ thì có thể lý giải không cần tới toán học, trong một hình thức mà những người không được huấn luyện về khoa học có thể hiểu. Đây là điều mà tôi đã thử làm trong cuốn sách này. Độc giả sẽ phán đoán xem tôi có thành công hay không.
– Stephen Hawking
20 tháng 10 năm 1987
Vũ trụ và Khoa học
Khoa học hiện đại đã và đang tiến rất mạnh mẽ nhờ Lý Thuyết Tương Đối Rộng của Albert Einstein và Lý Thuyết Vụ Nổ Lớn ( Big Bang) đã loại bỏ được hai khái niệm tuyệt đối của khoa học thế kỷ 19: Thuyết không gian Ether với Vũ Trụ đứng yên tuyệt đối và Quan niệm Thời gian tuyệt đối phổ quát là bằng các đồng hồ chỉ thời gian .
Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó được phát biểu : Vũ Trụ được bắt đầu từ một Điểm Kỳ Dị có mật độ vật chất và nhiệt độ cực lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ và có Kích thước cực nhỏ .
Từ Lý thuyết này , không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay.Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển về phiá đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,7 tỷ (13,7 × 10 9) năm : Vậy chúng rất gần nhau tại một điểm kỳ dị.
Cũng từ “Vụ Nổ Lớn” các Khoa Học gia sử dụng trong nghĩa hẹp là một thời điểm khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng là quá trình tiến hóa để giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ .
Các Thành quả thực tế ngày nay đã chứng tỏ điều này :
Năm 1989 cơ quan NASA hàng không vũ trụ Hoa Kỳ đã phóng vệ tinh thăm dò có tên là Phông Vũ Trụ COBE , các kết quả ban đâu quan sát đươc rất phù hợp với các tiên đoán của Lý thuyết Vụ Nổ Lớn liên quan đên Bức Xạ Phông Vũ Trụ ; COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư là 2,726K và xác định bức xạ đó là đẳng hướng và có độ chính xác 10-5
Các dữ liệu này cho phép các nhà vũ trụ học tính toán rất nhiều thông số về Vụ nổ lớn với độ chính xác cao và những khám phá bất ngờ là sự giãn nở của vũ trụ không phải là đều mà đang được gia tốc.
Vào đầu năm 2003 các kết quả từ Vệ tinh dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP) được phóng đi và đã thu được các giá trị chính xác nhất về các thông số vũ trụ. Vệ tinh này cũng loại bỏ một số mô hình lạm phát vũ trụ đặc .
Tất cả các quan sát đều được giải thích bằng mô hình Lambda-CDM, trong đó, mô hình toán học về vụ nổ lớn có sáu thông số tự do. Bí ẩn xuất hiện khi người ta quan sát gần điểm khởi đầu, khi mà năng lượng của các hạt lớn hơn năng lượng mà các thực nghiệm chưa đạt được.
Hiện không có mô hình vật lý nào mô tả vũ trụ ở thời điểm trước 10-43 giây,tức trước thời điểm có Điểm Kỳ Dị (Điểm có khối lượng, nhiệt độ vô cùng lớn - kích thước vô cùng bé ) . Tại thời khắc ngắn ngủi tức thì này, lý thuyết Einstein về hấp dẫn tiên đoán một điểm kỳ dị hấp dẫn, tại đó mật độ vật chất trở nên vô hạn. Để giải quyết nghịch lý vật lý này, người ta cần đến lý thuyết lượng tử hấp dẫn. Đó là một trong những vấn đề chưa giải quyết được trong vật lý
h=6.626 069 3 x10-34 J.s
h= hằng số Planck ; J = Joule ; s= giây
Tuy nhiên trong Khoa vũ trụ học, Kỷ nguyên Planck đặt theo tên nhà vật lý nổi tiếng người Đức Max Planck được dùng để chỉ khoảng thời gian sớm nhất của lịch sử vũ trụ từ lúc 0 giây cho đến 10-43giây (bằng một thời gian Planck), và ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn đó bốn lực cơ bản được thống nhất. Đây là một thời khoảng lý thuyết mà tất cả những định luật của nền vật lý cổ điển cũng như vật lý lượng tử đều không áp dụng được. Có nghĩa là, trước đó trước lúc 0 Giây, chúng ta hoàn toàn không biết gì về vũ trụ với những lý thuyết vật lý hiện tại do vậy ở thời điểm ấy ta vướng phải một “bức tường” trừu tượng. gọi là Bức Tường Planck.
Thời gian và không gian mà chúng ta quy ước hiện nay trở thành các khái phức tạp và nan giải trong suốt kỷ nguyên Planck (từ 0 đến 10-34 giây ) Vì Ở Điểm Kỳ Dị , trong thuyết tương đối rộng ; các độ đo lường vật lý như áp suất, nhiệt độ …cao đến mức mà không-thời gian có vẻ như đạt đến một độ cong (curvature) vô hạn . Kích thước của vũ trụ tại thời điểm này có độ lớn bằng độ dài Planck, ký hiệu Lplanck, và có giá trị xấp xỉ , là độ dài vật lý nhỏ nhất được coi là có ý nghĩa trong các lý thuyết vật lý hiện tại. Nó thể hiện một độ dài tự nhiên theo đó xuất hiện một lý thuyết hấp dẫn lượng tử nào đó.
Trong đoạn kết của cuốn Lược sử Thời gian Stephen Hawking đã kết luận :
Tuy nhiên, nếu chúng ta khám phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, rồi ra nó phải có thể hiểu được trên nguyên tắc rộng rãi bởi tất cả mọi người, không phải chỉ một vài khoa học gia. Rồi tất cả chúng ta, những triết gia, khoa học gia, và cả những người bình thường, sẽ có thể tham gia vào cuộc thảo luận câu hỏi tại sao chúng ta và vũ trụ lại hiện hữu như thế. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là một chiến thắng tối hậu cho lý luận của con người — bởi vì khi đó chúng ta sẽ biết được ý nghĩ của Thượng Đế…
Những lý do mà Đạo của vật lý có khi bị cảm nhận như sự đe dọa nằm nơi sự hiểu sai phổ biến về tính chất đạo học. Trong cộng đồng khoa học, đạo học thường được nghĩ là một cái gì mơ hồ, ù mờ, tối tăm và hết sức phi khoa học. Khi thấy một lý thuyết đáng yêu của mình bị so sánh với hoạt động mơ hồ tối tăm đó, nhiều nhà vật lý cảm thấy bị đe dọa rất nhiều.
Cái nhìn sai lầm này về đạo học thật sự là rất đáng tiếc, vì nếu ta đọc những kinh sách cổ điển của các truyền thống đạo học, ta sẽ thấy những chứng thực tâm linh sâu xa không bao giờ được mô tả một cách mơ hồ tối tăm, mà ngược lại, nó luôn luôn liên hệ với sự sáng sủa. Hình tượng tiêu biểu mô tả thực chứng này có thể là dứt bỏ vô minh, cắt bỏ ảo giác, tâm thức sáng tỏ, nhận thức ánh sáng, hoàn toàn tỉnh giác - tất cả những cái đó nói về sự sáng tỏ. Thực chứng tâm linh lại đi ra khỏi mức độ suy luận trí thức, nên sự sáng tỏ là một thể loại khác, nhưng nó không có gì là mơ hồ hay tối tăm cả về các thực chứng này. Thực tế là từ giác ngộ mà chúng ta dùng để mô tả thời kỳ của Cartesi mới, thời kỳ tiếp cận khoa học ở châu Âu vào thế kỷ 18, là một trong những từ cổ nhất và được sử dụng rộng nhất để mô tả thực chứng tâm linh.
The Tao Of Physics FritjCapra
Kinh Dịch, không ai chối cãi được là một trong những cuốn sách quan trọng nhất của văn học thế giới. Nó manh nha từ thời cổ đại huyền bí. Cho đến ngày hôm nay các nhà thông thái quan trọng nhất của Trung Quốc vẫn còn tìm hiểu về nó. Hầu như tất cả các tư tưởng lớn và quan trọng nhất của một lịch sử 3000 năm ở Trung Quốc, một phần là do cuốn sách này gợi mở, phần khác là muốn lý giải nó, để ta có thể yên tâm nói rằng, trong Kinh Dịch một nền văn minh triết già dặn nhất của ngàn năm đã được trình bày.
Richard Wilhelm
Nhà nghiên cứu tư tưởng Trung Quốc
Đóng góp lớn nhất trong ngành Vật lý Lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử.
Werner Heisenberg.
Rất tiếc GS F.Capra và R.Wihelm không biết gì về Văn minh Việt Nam và Dịch lý Việt Nam; họ chỉ biết đến China ,Japan… ! Nhưng dù sao họ cũng thấy được nhu cầu quan trọng của Trí tri Ý và mối tương quan bất khả phân giữa Tâm thức và Vật chất .

Vũ Trụ học và Dịch Lý Việt Nam
Dịch Lý Á đông ( Tầu , Nhật , Đại Hàn …) được thế giới khoa học biết đến như một kho tàng khổng lồ về ý nghĩa và nội dung cùng với Hình đồ và Ngôn từ khó hiểu nhưng man mác những ý nghiã siêu tuyệt tạo sự hiếu kỳ thích thú đặc thù cho các Nhà Khoa học nghiên cứu . Pho sách của Chu Hy được Khổng Tử san định là một trong những kho tàng này .
Riêng đối với người Việt Nam ; có thể nói Dịch Lý đến từ hai nguồn
1. Nguồn thứ 1 : Từ giới kinh điển khoa bảng thời Phong kiến , chịu ảnh hưởng rất nhiều của phương Bắc Trung Hoa với Tứ Thư Ngũ Kinh và không phổ biến trong giới bình dân .
2. Nguồn thứ 2 : Từ Văn hoá Ẩn tàng truyền tụng Lý dịch trong Dân gian ; Ngôn từ của Người Việt tràn đầy Âm Dương Lý độc đáo bằng Văn chương truyền khẩu bất đắc dĩ phải có do mộng đồng hoá xâm lấn và khống chế lâu đời của người Trung Hoa khiến Văn Hoá Âm dương nằm sâu trong tiếng nói và trong Ca dao VN …Từ một thời trục đe doạ hạnh phúc nhân loại ,mâu thuẫn ,chết chóc, ngạo mạn đổ trên đầu các Dân tộc yếu kém nên các Dịch Lý Sĩ Việt Nam buộc phải nói lên tiếng nói bất khuất của Văn minh Việt Nam.
Dịch Lý Việt Nam khai mở Kỷ Nguyên Mới từ Nguồn thứ 2 này .
Dịch Lý Việt Nam không dài dòng kinh điển như các loại Dịch Lý quảng diễn ở các Quốc gia khác . Dịch Lý Việt Nam chỉ có một khám phá rất giản dị nhưng phi thường , một Nguyên Lý đơn sơ nhưng huyền biến , một công thức mộc mạc nhưng là quyền năng của Vũ Trụ ; Công thức của Luật Biến Hoá đó là :
CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC
Nói cách khác đó là YẾU LÝ ĐỒNG NHI DỊ
Và ta phát biểu : Cái mới là Cái giống mà hơi khác với Cái cũ .
Vâng :
1. Yếu Lý Đồng Nhi Dị giải thích tại sao từ Vô cực lại thành Thái Cực .Chỉ là vì Lý trí đã nhận thức Vạn vật đều Biến Hoá Biến đổi Biến động , khi biết có KHÔNG là đã có CÁI KHÔNG , cái Không vừa có mang hình ảnh Giống mà hơi khác với cái Không cũ ; vậy Thái cực chính là bộ mặt mới cuả Vô cực giống mà hơi khác Vô cực ; Chính ngay cái không điểm thời điểm của cái Điểm Kỳ Dị mà các Nhà Khoa Học ngày nay với Lý Thuyết BIG BANG đã vận dụng chính Tri Tri Ý và kiến thức Khoa học của mình để chứng minh rằng Vụ nổ Lớn khởi đầu tạo ra Vũ Trụ có Không gian vô cùng nhỏ và thời gian là 10-43 Sec ( không phảy 42 con số không sau không phảy ) Đỉểm Kỳ Dị chính là bộ mặt mới của cái Không ban đầu . Sự Biến Hoá mầu nhiệm này là có thật và còn nhanh hơn cả thời gian 10-43 Sec nhiều lần so với chính lý trí con người một tiểu vũ trụ cảm nhận được .
2. Cũng chính nhờ cái lý lẽ giống mà hơi khác này chúng ta thấy ngay một Hiện hữu hay một cái Thành ra nào đó đều có trong nó cái giống mà hơi khác với cái trước nó ; điều này đúng ở khắp mọi nơi mọi lúc bất kể không gian thời gian ( không thời gian) ; từ đó để neo ý Cổ nhân bèn vẽ Hình Đồ Thái Cực ; nhưng chưa đủ diễn tả ý nghiã Giống Mà Hơi Khác của một Hoá Thành lập tức tức thời Biến Hoá Biến đổi như thế nào Cổ nhân lại vẽ thử một Vạch ; cái vạch này lại quá lớn ! quá quá quá nhiều những điểm giống mà hơi khác với điểm khởi đầu …trụ thần lại Cổ nhân bèn vẽ Một Gạch liền ,Một Gạch đứt nhưng phải neo theo ý nghiã biến ra cái giống mà hơi khác trong một không thời gian cực ngắn . Danh neo ý gọi là Âm Dương Lưỡng Nghi
3. Một vấn nạn kế tiếp là Công Thức Hoá Thành cho biết
CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC phải bao hàm các ý nghiã :
· Thứ Nhất là phải đồng thời thể hiện được sự tương tác giao hoán qua lại của Âm Dương Cũ Mới nếu không thì không có biến hoá ; Sự Tương tác giao hoán cho ta Lý tính đối đối kháng kháng , động tĩnh tĩnh động , bị được sinh sinh khắc khắc, tuần tự trật tự .
· Thứ Hai trong Một Thể Hiện hữu Hoá thành ấy đồng thời phải thoả mãn là trong nó buộc phải có cả 3 cái : cái cũ, cái mới ,cái hơi khác lập tức tức thời .
4. Từ Ý nghiã thứ nhất tạo ra Lý tính hay Thần tính sinh động : Danh gọi là TỨ TƯỢNG
5. Từ Ý nghiã thứ hai tạo ra Một Hoá Thành có 3 Gạch .Danh gọi là BÁT QUÁI
















6. Từ đây mỗi Quái trong Bát Quái đã trọn vẹn mang đầy đủ ý nghiã của một Hoá Thành , Bát quái đại diện cho vạn loại Hoá thành , 8 loại Hoá thành ẩn trong nó đầy đủ ý ,lý ,nghiã của Yếu Lý Đồng Nhi Dị . Các loại chúng sinh hoá thành này mang theo ý lý nghiã của mình để giao hoán đối đãi tạo ra 64 TƯỢNG tình ý tình lý trùng khắp trong Vũ trụ Vạn vật .

VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI
Phân Hội Đức Quốc
Đỉnh Cấu 21-05 Mậu Tý

Khoa Học Dự Báo

June 15, 2008 by vndichlyhoi
Hay Dịch Lý Báo Tin
Vấn đề Dự báo thường được dùng dưới nhiều danh từ khác nhau : Dự đoán , Tiên đoán , Quyết đoán … Và để thực thi Sự việc này con ngườI cần có những điều kiện khả dĩ mang tính Khoa học Khách quan ; nó tuỳ thuộc vào Trí tri Ý thức được Tu tập rèn luyện của mỗi con người . Ở đây tạm liệt kê những Điều kiện cho một Dự đoán nghiêm túc nhất :
1.- Xác định Dữ kiện trong một Phạm vi Tình Lý nào đó .
2.- Quan sát , nhận xét Dữ kiện cùng với thời động và cơ động .
3.- Xử dụng một Phương pháp chính lý toàn diện và chính xác ở mọi nơi mọi lúc bất kể không thời gian .
Để đáp ứng những Điều kiện nêu trên buộc Trí Tri Ý của Con người phải Tìm đến những gì Tận cùng của nó ; nghiã là phải biết Thắc mắc , phải biết Truy nguyên hay Hoàn nguyên để giải đáp cho chuỗi thắc mắc tại sao ấy ; bởi vì Văn bất tận Ngôn ; Ngôn bất tận Ý , Ý bất tận cùng kỳ Lý .
Vậy Lý ấy là Lý lẽ nào mà tự thân nó lại đúng ở khắp mọi nơi mọi lúc ,lại như nhiên tự nhiên không khiêm cưỡng cho Trí Tri Ý Thức ?
Văn minh Khoa học ngày nay cũng chưa thể thoả mãn những điều kiện này !
Văn minh Cổ Đại cũng quá nhiều dị biệt hay mai một chẳng hạn như :
* Đông Y Học thật khó trả lời với câu hỏi Ý Lý căn cứ vào Ngũ Hành ! Vậy Ngũ hành từ đâu mà có ? Tại sao có ?
* Tử Vi Học căn cứ vào Các Sao an vị , Thiên bàn Điạ bàn … ; Tại sao có các sao , cách biến thông ý nghiã các sao theo phương pháp nào , quy luật nào ? Tại sao có 12 cung ? Tại sao có Lục Thập Hoa Giáp ? Tại sao mỗi sao có tính Ngũ hành ? v.v…
* Bói Dịch cũng vậy ; Tại sao có Thái cực ,Lưỡng Nghi , Tứ tượng,Bát Quái ,64 Tượng ? Căn cứ và cách biến hoá lý lẽ biến hoá nào ? v.v…
Tất cả những Vấn nạn trên Dịch Lý Việt Nam phải giải quyết và đã giải quyết ; Hội Dịch Lý Việt Nam đã khai mở Kỷ Nguyên Mới khởi từ năm 1965 để Đại Chúng Hoá Văn Minh Dịch Lý Việt Nam .
VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI
Phân Hội Đức Quốc kính cáo .
TẠI SAO HỌC DỊCH LÝ VIỆT NAM ?
  1. Thắc mắc Tại sao là nguyên tắc khởi đầu của Dịch Lý Việt Nam .
    • Con người Dựa vào chính Trí óc , Giác quan của mình để nhận biết Vạn vật chung quanh mình và luôn luôn thắc mắc , Sự thắc mắc đã khởi từ thuở sơ sinh .
    • Thắc mắc và biết thắc mắc là đông lực phát triển Tri thức ,thành quả của một nền Văn minh là kết quả chung góp của nhiều nhân tố biết Thắc mắc .
    • Nhờ có Thắc mắc con người biết khám phá , biết Đặt tên ,biết kiểm nghiệm , biết diễn tả , biết quy kết ,biết trao đổi ,biết đồng ý , biết phản đối ,…Biểu tượng , Chữ viết ,Lý thuyết , Triết thuyết … khởi từ đó .
  2. Vậy Con người trong quan điểm Dịch Lý như thế nào ?
    • Con người là một hiện thực sống động có Trí tri riêng của nó biết Thắc mắc về chính nó và mọi thứ loại chung quanh nó .
    • Con người Thắc mắc để tự thấy mình đang dùng chính Lý Trí của mình để suy tư ,để tự giải đáp dù giải được hay không được ! Ta không thể phủ nhận cái tôi có Lý Trí đã đang và mãi biết thắc mắc , Lý trí lúc mờ lúc tỏ ,lúc u tối lúc siêu tuyệt linh diệu .
    • Con người biết dụng Lý trí chính là lúc nó bắt đầu Truy Nguyên Lý Học , Lý trí biến hóa khôn cùng không hình không ảnh nhưng ta lại khu xử được nó từng giây từng ngày .
    • Như vậy con người có trong nó Thần thức và Đức Thần minh biến đổi biến hoá bình đẳng và như nhiên giống như muôn loài trong Vũ trụ sống động . Thực ra Thần thức trực ngự ở Trí Tri Ýcòn Đức Thần Minh là phần Âm ẩn tàng so với Thần Thức , Đó là Trí Tri Ý Cơ Cấu .
    • Thì ra Con người là một Hoá Thành siêu hợp Giữa Hữu thể Vật chất và Siêu thể Tinh Thần cả hai không thể chia tách , cả HAI là MỘT , Một Âm một Dương cùng lúc chung cùng bất khả phân cùng với cái Hoá thành biến đổi lập tức thời liên tục liên lỉ thành cái Thứ Ba giống mà hơi khác với cái trước nó ; nói cách khác có không thời gian can dự thì Cái tôi hôm nay giống mà hơi khác với cái tôi hôm qua , hay xa hơn cái tôi lúc10 tuối giống mà hơi khác với cái tôi 20 Tuổi hoặc quá quá khác với cái tôi năm 60 tuổi…nhưng tất cả chỉ là một chuỗi giống mà hơi khác với cái trước nó ! Đó là Luật Biến Hóa tuân thủ Yếu Lý Biến Hoá Đồng Nhi Dị .
    • Con người cùng Vạn vật trong Vũ trụ , Tự Do Động Tĩnh ,Tĩnh Động trong một Quy Luật Động Tĩnh Sống Động .
    • Con người và Vạn loại trong Vũ Trụ thời nay nay thời chỉ là Sự Kết tinh của muôn thuở Nhân loại và Vạn hữu. Đó là Luật Cấu Tạo Hoá Thành . Cho nên dù muốn dù không Con người và Vạn Hữu đã và đang thành , đã và đang sống động linh hoạt nhịp nhàng với Luật Thiên Địa Tuần Hoàn , Sinh sinh Diệt diệt ,Tuần tự Trật tự muôn đời và mãi mãi .
  3. Con người với Tri Tri Cơ cấu đã đặt tên cho mình và vạn hữu thế nào ? Tại sao phải đặt tên ? Theo Lý nào để Đặt tên ?
    • Vạn vật tự nó vốn không tên , nó chỉ là nó một Biến Hoá Hoá thành của Vũ Trụ đúng như luật Cấu tạo Hoá thành biến hoá biến đổi như nhiên .
    • Con người vì nhu cầu truyền thông đã tự đặt tên cho mình và cho vạn vật .Việc Đặt tên hay Định danh này là do con người làm cho vạn hữu mang danh mang tánh .
    • Dịch Lý không xét quá trình lịch sử của danh tánh vì nó thuộc phạm trù Ngôn ngữ học ; mà là truy tìm lý lẽ của Danh tánh , nghiệm xét Tiền nhân đã đặt tên theo nguyên lý nào , lý lẽ nào ? Và dĩ nhiên không bị lệ thuộc vào hình thức ký tự của Ngôn ngữ khi truy tầm Ý Lý của Danh Lý .
    • Lý Định Danh có diễn tiến như sau :
  4. - Khởi từ Ý thức con người khi quan sát ,cọ sát với vạn hữu đã và đang biến hoá hoá thành giống giống khác khác cần phân biện .
    - Nẩy sinh Ý định muốn tượng hình hài thanh ( vẽ ra nói hay viết ra ) để truyền thông .
    - Trụ thần để so sánh phạm vi , phân biện tình ý , so sánh cái cái giống cái hơi khác , nghiã là tìm cái Lý cho Sự Lý cần truyền đạt : đó là Ý Lý.
    - Ý Thức + Ý định = Ý Tưởng.
    - Ý Tưởng + Ý Lý = Danh Lý
Người học Dịch Lý vì thế không bám chết vào Danh từ ,Ngôn Từ mà phải vượt trên nó để tìm Danh Lý của muôn vật . Hiểu chết nghiã một ngôn từ thì khó mà Cảm thông được với Thiên địa vũ trụ Vô Hữu ; là tự dìm vào chốn mê lầm cố chấp .
Danh được gọi là Chí lý ( Danh Lý) phải có cái giống mà hơi khác nhau làm căn bản bổ nghiã cho nhau , ban nghiã lý cho nhau trong Cái NHẤT LÝ .
  1. Câu trả lời tại sao ?
    • Chính vì Thắc mắc và muốn thắc mắc đến tận cùng không bị khiêm cưỡng áp đặt nên người có trí luôn luôn muốn tự mình truy tìm Chân lý.
    • Chân lý Không cần tìm ở đâu xa mà tìm ngay chính con người ; xử dụng hành trang tuyệt diệu nhất là chính Trí Tri của mình: Trí Tri Ý Cơ Cấu .
    • Chính nhờ Trí Tri Ý Cơ Cấu Tiền Nhân đã Khám phá Lý Dịch ; neo ý Lý Dịch bắng Hình Đồ Thái cực Vô Tự Vô Thanh .
    • Hội Dịch Lý Việt Nam từ năm 1965 đã khai mở con đường để ai ai cũng có thể qua được ngưỡng cửa Dịch Lý . Một Kỷ Nguyên Mới của Văn Minh Việt Nam .
    • Xin các Bạn hữu duyên hãy liên lạc với chúng tôi .

  2. VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI
    Phân Hội Đức Quốc

QUẢNG DIỄN VĂN MINH DỊCH LÝ VIỆT NAM

1. Nhập đề

Văn Minh Dịch Lý Việt Nam khai mở Kỷ Nguyên mới từ năm 1965 , Triết thuyết Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức được công bố với niềm tự tin ở Chính khí tràn đầy của Dân tộc tạo cán cân quân bình cho Văn Minh Cơ khí bạo tàn và Văn Minh Tinh Thần suy đồi.
Con người là một trong những Hoá thành trong Vũ trụ Vạn Vật Vô Hữu Sáng tối U linh không thể phủ nhận Lý trí ẩn tàng vô hình trong Thể xác hữu hình của chính mình làm khí cụ tri ngộ vạn hữu chung quanh , để truy nguyên khảo cổ , để hoàn nguyên Tri thức chính là vận dụng Tiên Hậu thiên Trí Tri Ý Thức .
Người Việt Nam vận dụng Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý để soi sáng Vũ Trụ Dịch bằng Ngôn ngữ Việt , bằng Lý giải huyền cơ Biến hóa Vũ Trụ Dịch với Trí Tri Ý Việt Nam . Lý giải của người Việt Nam về Lý Dịch độc đáo và khác hẳn các Lý giải của các Dân tộc khác nên gọi là Dịch Lý Việt Nam .
Lý trí của con người trong mọi thời đại thường thắc mắc : Tại sao có sự Hoá thành Vũ Trụ Vạn Vật ? Hãy theo dõi Tiên Hậu thiên Trí Tri Ý Thức Lý giải :

2. Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Việt Nam thắc mắc và Lý giải :

Khởi từ cái Không Hoàn Toàn Không một hiện hữu Truy Nguyên của Lý trí tánh vừa nhận thức được thì Tính Hoàn Nguyên của chính Lý trí ấy lại cho thấy tức thời có một cái Không giống mà hơi khác cái Không cũ đã vừa nhận thức nghiã là cái Không tức thời đã biến thành cái : Có cái Không . Vậy :
· KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG ( Absolut Nul ) là cái KHÔNG không còn tồn tại nữa vì đã Biến hoá, Biến đổi, Biến động, trùng trùng điệp điệp đã Hoá Thành ra Vũ Trụ hiện hữu , và chỉ còn thường tồn cái Lý lẽ vĩnh cửu của nó :
CÁI MỚI = CÁI CŨ GIỐNG MÀ HƠI KHÁC
· Cái Lý lẽ từ KHÔNG biến thành ngay lập tức và tức thời ấy trong khoảng không thời giai tức thời cùng lúc chung cùng mang hình ảnh cũ nhưng hơi hơi khác sau khi Biến hóa cho kết quả :
KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG + HƠI KHÁC = KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG CỰC
· Cực tính có lý lẽ của nó, Cực không phải là chấm dứt mà là thời lúc Biến Hóa Luật tuân thủ Lý lẽ để hoá thành Cái Mới manh nha GIỐNG MÀ HƠI KHÁC cái Cũ .
KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG + MANH NHA = KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG CỰC
Như vậy mọi vật đều có LÝ CỰC nghiã là nếu tới CỰC thì phải có Biến Hóa .Từ đó nếu xét về phạm vi cơ học vận hành ta có
TĨNH HOÀN TOÀN TĨNH + MANH NHA ĐỘNG = ĐỘNG TĨNH
Trong tĩnh có Động , trong Động có Tĩnh là vậy .

3. Nguyên Lý của mọi Nguyên Lý

Tóm lại Trí Tri Ý đã khám phá rằng cái vừa Hóa thành KHTKCỰC đã ẩn tàng trong nó Cái KHTK và Cái KHTK Manh Nha . Nói cách khác khi hình thành THÁI CỰC phải thấy rõ trong cái MỘT vừa hình thành ấy trong nó hàm chứa một cái KHÔNG = ÂM ẩn tàng và một cái CÓ = DUƠNG hiển hiện với Lý lẽ GIỐNG MÀ HƠI KHÁC = ĐỒNG NHI DỊ ; tuy Hai là Một nhưng Một lại là Hai với Cực tính ôm ấp Lý lẽ Đồng Nhi Dị sẵn sàng để Manh Nha Biến hoá Hóa thành , để san xẻ và ban nghĩa lý cho nhau
Đó là Nguyên lý của mọi Nguyên Lý đó chính là :
YẾU LÝ ĐỒNG NHI DỊ

Là Yếu lý vận hành trong chính Lý Trí và do chính nó khám phá soi dẫn cho chính nó một Tiểu Vũ trụ con người vần vũ giống mà hơi khác với Đại Vũ Trụ Đã , đang và mãi mãi Biến Hoá Hoá Thành .

4. Định Danh

Định danh hay sự Đặt tên là tìm một từ ngữ tượng thanh , tượng ý hay tượng hình và gán ý nghiã cho sự vật , sự việc , sự lý neo cho nó một ý tưởng , ý niệm sống động do đó nó có một giá trị truyền thông giữa con người với con người tùy khoảng không gian thời gian , sự tiến hoá này của ngôn từ tuỳ thuộc văn minh ngôn ngữ nhân loại .
Định danh như trên chỉ là hình thức truyền thông ,là dụng cụ trao đổi tư tưởng là đối tượng trong Ngôn Ngữ học . Nhưng với quan điểm Dịch Lý thì Dịch lý không khảo sát như thế mà Truy tầm cái Hữu lý Vô lý của sự Đặt tên đến tận cùng kỳ lý và Vô Tư . Diễn tiến ấy của sự Đặt tên như sau
· Vạn vật vốn tự nó không có tên .
· Con người vận dụng Lý trí tánh qua Ý thức, Ý Định,Ý kiến giao hoà với sự vật, sự lý.
· Tìm phạm vi cho sự lý và sự vật .
· So sánh Đồng Dị , giống, hơi giống , khác ,hơi khác để hội lý rồi đặt tên..
Tại sao có Danh người giầu kẻ nghèo đó chẳng phải là giầu nghèo vốn chỉ là một Sự lý ; bảo là nghèo vì ít giầu , có một triệu vẫn là nghèo vì so với người tỷ phú ! Cũng thế Sáng tối , Ngu khôn , Thiện ác ,… cũng chỉ là MỘT MÀ HAI , cả hai ban nghiã lý và san xẻ cho nhau để có tên , có danh ; nếu không có bóng tối làm sao biết có sự sáng …Nhưng nếu câu chấp vào cái danh chết nghiã , bám lấy cái danh hạn hẹp với các quy ước mặc định từ định nghiã coi đó là tuyệt đối thì dễ dàng mê lầm rời xa sự thật, là khởi điểm cho Nghiệp chướng và tội lỗi ; làm gì còn Đức Vô Tư vốn vượt khỏi không thời gian và mãi Biến hoá Biến đổi .
Một khi cái Danh được và bị con người hiểu chết nghiã chính là lúc con người bị thoái hóa trong việc tu tập Hội Lý Cảm thông Thiên Điạ Vạn Hữu . Dịch Lý Việt Nam ấn chỉ người học Dịch sau khi thắc mắc tra vấn chính lý trí tính của mình để vô tư tư lự chấp nhận được những gì có Lý muôn đời và ở khắp mọi nơi
Xét như vậy diễn trình đặt tên đã được Lý trí hiểu biết vận dụng Nhất Lý Đồng Nhi Di mà định danh , so sánh , phân biệt danh lý cho Sự lý Sự Vật đến tận cùng kỳ lý Vô tư bất thiên bất nhiễm người học Dịch cần truy nguyên Ý Lý mà quán thông Chiêm nghiệm .

5. Lý Thành

Yếu lý Đồng Nhi Dị đơn sơ mộc mạc nhưng chi ly mầu nhiệm bao trùm và hiện hữu mọi nơi, mọi lúc từ giống mà hơi khác đến hơi hơi khác nhiệm nhặt biến hóa tức thời bất kể không thời gian đến nỗi trở thành quá khác , quá quá khác khiến Lý trí thông thường không bắt kịp dường như trở thành mịt mù u tối !

Lý trí cũng là một biến hoá; hoá thành nghiã là cũng có giống mà hơi khác ĐND , nghiã là cũng có một Lý trí linh hoạt thần thông trực giác, có Lý trí thông thường , có sáng trí tối trí giống mà hơi khác . Mọi cái gọi là Hoá Thành ,thành cái Hiện Hữu đều sẵn trong nó cái Lý ĐND giống mà hơi khác.
- Lý trí có sáng trí tối trí.
-
Sáng có sáng tỏ sáng mờ
-
Tối có tối om tối mờ .
-
Bào thai tinh trùng noãn sào .
-
…..
Mọi Hoá thành đều là MỘT MÀ HAI , cái thứ hai giống cái thứ nhất mà hơi khác và ngược lại , Diễn đạt cái Lý Một mà có Hai giống mà hơi khác, cái cũ cùng ở trong một thể thống nhất biến hoá cùng lúc chung cùng nhiệm nhặt tức thời, tạm gọi là ÂM DƯƠNG , DƯƠNG ÂM trong Căn Nguyên Đệ Nhất
KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG CỰC
Với Yếu Lý Đồng Nhi Dị trên và cũng chính nhờ Lý trí tánh đã giúp Tiền nhân Cổ Đại Tượng Ý , Tượng hình bằng các Hình đồ và nét vẽ vạch hào VÔ TỰ ( không lời ) là muốn chúng nhân Hậu học đạt Ý ,đạt Lý Âm Duơng ĐỒNG NHI DỊ :
Để thể hiện Ý Niệm MỘT MÀ HAI trong cùng một thể thống nhất hữu lý với Đồng Nhi Di biến hoá biến đổi biến động lập tức , tức thời bất kể không thời gian ; cái Thể thống nhất ấy lập tức là một Hoá thành mới ôm ấp cái giống mà hơi khác trọn vẹn chính lý vậy MỘT CHÍNH LẠI LÀ BA .Cùng lúc Lý trong Âm có Dương , trong Dương có Âm thì 2 Hoá Thành vừa xuất hiên tức thời ,cùng lúc chung cùng cũng buộc phải thể hiện 4 tính và thể , 4 tính và thể này nặng về vận chuyển động tĩnh nội tại , cũng vậy 4 tính thể vưà xuất hiện trong cái thể thống nhất 1 mà 3 cũng phải mang lý lẽ giống mà hơi khác và tức thời biểu lộ Âm Dương Động tĩnh Giống Mà Hơi Khác ; vậy là có MỘT(1) MÀ NĂM (5) , 5 động tĩnh nội tại của một Biến Hoá Hoá Thành :
Đến đây cần nhắc lại Ý Niệm là ngay mỗi Hoá Thành trong nội thân nó có 2 cái giống mà hơi khác kết hợp ví như thành cái TÔI thì cái tôi có trong nó hình ảnh giống mà hơi khác của Cha Tôi và Mẹ Tôi , nghĩa là Cái Tôi ấp ủ cái Lý MỘT MÀ BA là LÝ THÀNH là lý lẽ thành ra một cái Đã Thành , là cái Đơn Vị Hoá thành 1 mà 3 , là đã Xung mãn hội đủ các điều kiện của ĐỒNG NHI DỊ để viên mãn Ý và Lý ,mọi Hóa Thành tạo lập trong Vũ trụ chỉ có 8 Hình bóng và ý lý cho Lý thành ấy không thể hơn được . Thứ tự Hoá thành được Lý Vô Tư Bất thiên Bất Nhiễm là cùng lúc chung cùng bất kể không thời gian , nên thứ tự cũng có thể tuỳ sự bám trụ Lý Trí tính Thông thường cuả Trí Tri Ý mà hiển lộ với Đồng Nhi Dị ẩn tàng :
MỘT MÀ CÓ HAI NHƯNG LẠI LÀ BA VỚI NĂM ĐỘNG TĨNH ĐỂ HOÁ THÀNH TÁM
Ngưng Trụ Tiềm Khởi Hiển Như
Khôn Cấn Khảm Tốn Chấn Ly Đoài Kiền
Điạ Sơn Thủy Phong Lôi Hỏa Trạch Thiên
Chính 8 Thực thể Lý thành này giao hoán tạo thành 64 Tình Lý mà chúng ta Gọi là 64 Dịch Tượng hay Quẻ Dịch . Dịch Lý Việt Nam gọi là Lò Tạo Hoá .
Nói khác đi Ý Lý Đồng Nhi Dị ẩn tàng trong mỗi Hoá thành khi giao hoán nhau nẩy sinh tình ý từ đó Trí tri ý Thần thức nương theo Đồng Nhi Dị mà nắm bắt được tiếng nói tình lý của Thượng Cầm Hạ thú , của Vũ tru. Vạn Vật Vô Hữu , của Tạo Hóa sau nhiều ngày Chiêm nghiệm là điều tất yếu và khả thi
HanhThanh

ĐẠI CHÚNG HÓA LỊCH SỬ

NHÂN DÂN VIỆT NAM
(Tóm lược Tài liệu học tập dành cho lớp Tiên Ðồng Ngọc Nữ)
Ý thức cho rõ :
1. Con người Việt Nam trên hiện thân xã hội loài người cận đại.
2. Vũ Trụ Lịch tức Lịch Số.
3. Lịch sử oai hùng.
4. Việt ngay gian tính tình, nguỵ mà không nguỵ.
5. Ðạo Cực Võ Văn, khởi thịnh Văn Vő hoá thành bông trái của Thiên Ðịa Quỷ Thần, tức là Việt Nam khai mở Kỷ nguyên mới.
Kỷ nguyên Liên Hành Tinh nói :
Thời đại nhân loại đổ bộ nguyệt cầu và thám hiểm các hành tinh khác, có nghĩa là :
Thời nay nhân loại bước vào : Vũ Trụ Ðạo.
Thời nay nhân loại bước vào : Vũ Trụ Ngữ.
Thời nay nhân loại bước vào : Khoa Học Tổng Tập Nhân Thế.
Thời nay nhân loại bước vào : Trí Tri Cơ Cấu.
Thời nay nhân loại bước vào : Nhịp Cầu Huyền Vi Hiển Hiện Và Cảm Thông Tiếng Nói
Của Muôn Loài Vạn Vật (= Âm Dương Lý).
Nhân dân Việt Nam được và bị trải qua trong vũ trụ vô hữu không thời gian , được và bị sống động trong không thời gian chung cùng liên hệ trong Vũ Trụ Vô Hữu Biến Hóa.
Không thời gian là một cùng lúc chung cùng, :
Không gian : khắp mọi nơi, bao trùm thời gian.
Thời gian : mọi thời lúc, mốc đo không gian : thời điểm quy ước.
Không thời gian Xã hội loài người :
Tính không gian = phương hướng.
Tính thời gian = Lịch số (quy ước)
· Sự thật : Không gian đâu, thời gian đó.

Ðể đa số dễ nhận thức, ta tạm phân thời gian và không gian mà nhân dân Việt Nam được và bị sống động trải qua :
Không gian : trên hành tinh địa cầu nhân loại ở miền đông phương châu Á.
Thời gian : 1200 năm cận đại.
1. 1200 năm cận đại trong vũ trụ vô hữu biến hoá, trong xă hội loài người, trong dân tộc Việt Nam :
Vũ Trụ Lịch từ 3102 - 4251 (tức Giáp Dần)
Phật Lịch từ 1369 - 2518(tức Giáp Dần)
Chúa Lịch từ 825 - 1974(tức Giáp Dần), hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)
2. Trong khoảng thời gian vừa kể trên :
Tùy theo thời lúc, địa phương nhân dân Việt Nam được và bị gán danh : Việt ngay, Việt gian, thực dân, nô lệ, sùng ngoại, vong bản, ngụy này, ngụy kia ...
Danh tánh được gán có hơi khác nhau (dị) về ngôn xướng nhưng cùng để diễn tả ý nghĩa xấu xa (đồng) vì :
Nhân dân Việt Nam chưa có nêu lên, trình bày rõ chủ trương, chủ xướng bằng như không có chủ trương, chủ xướng. Chỉ chạy theo, được và bị a dua, a tòng theo, ăn làm theo, bắt chước theo, động tĩnh theo kiểu Ðạo Tùy. Ðược và bị sống chết theo kiểu chủ trương, chủ xướng vững mạnh của người nước ngoài bằng như sống cho kẻ khác, dân tộc khác, tiếp tục trung thành triệt để cho người nước ngoài, tiếp tục nhắm mắt, nhắm mũi ca ngợi người nước ngoài vĩ đại.
Ðó là sự sống động chung cùng liên hệ trên hành tinh địa cầu nhân loại (giữa người Việt Nam và người nước ngoài). Tức như đang còn giả bộ sống cho chủ nghĩa, chủ trương của Tàu Tây Nga Mỹ Nhật v.v...
Dĩ nhiên có văn hóa vong nô, sùng ngoại, lai căn, lẽ tất nhiên rơi vào các thời kỳ :
3. Các thời kỳ mà nhân dân Việt Nam được và bị gán danh Ngụy (1200 cận đại) :
a/ Thời gian Tàu đô hộ và chi phối : 1042 năm.
Vũ Trụ Lịch từ 3102 - 4144
Phật Lịch từ 1369 - 2411
Chúa Lịch từ 825 - 1867, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)
· Tàu : đời Ðường, Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, Tống, Nguyên, Minh, Thanh song song với các triều đại :
· Việt Nam : Ngô, Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, lệ thuộc Minh, Hậu Lê, Trịnh Nguyễn phân tranh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức.
Thời lúc ấy nhân dân Việt Nam chưa có chủ trương, chủ nghĩa mà nêu lên, cho nên đă được và bị ảnh hưởng văn hóa Tàu trên 1000 năm : thời Ngụy Tấn, Hán, rợ Mông cổ ...
· Văn chương : kính cẩn khom lưng thâu thập tinh hoa văn hóa nước ngoài để góp chút công đức trong việc củng cố nền văn hóa vong nô sùng ngoại, văn hóa ngụy.
· Môn phái võ : sang Việt Nam âm thầm và công khai.
Người Việt Nam được và bị động tĩnh theo chủ trương, chủ xướng của Tàu (Tàu đô hộ Việt Nam, các vua chúa Việt Nam lo triều cống thích thú và bất đắc dĩ để trọn nghiệp hát bội, hát chčo trong giai đoạn)
Sự thật, phải lựa chọn cái khéo, rồi chế biến thành cái hay cho dân tộc.
Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán đủ thứ danh : Việt gian, Việt ngay, Việt cong lưng, khúm núm, Ðường ngụy, Lương ngụy ...
Kế đó, người Tàu bèn san sẻ, chia nhượng, chia chác quyền lợi, trao đổi hàng hóa xứ Ðông Dương, trong số đó có Việt Nam, cho người Pháp. Những con người Pháp văn minh vĩ đại, kinh khủng, rùng rợn đến xâm lăng, xâm lấn các dân tộc thiểu số đông phương châu Á.
ă/ Nước Việt Nam được và bị hóa thành ra là thuộc địa mới của Pháp.
Vũ Trụ Lịch từ 4144 - 4221
Phật Lịch từ 2411 - 2488
Chúa Lịch từ 1867 - 1944, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)
Nhằm thời Tự Ðức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Ðồng Khánh, Duy Tân, Thành Thái.
Người Pháp nhập cảng đạo Thiên Chúa, văn hóa trữ těnh, ướt át, bay bướm, triết lý cá nhân chủ nghĩa.
Người Việt Nam trịnh trọng đón nhận hoặc tương kế tựu kế gě đó để đón nhận máy móc, vũ khí.
Pháp giết người Việt Nam hay ho, tài tình và khiếp đảm như vậy. Có thấy bao nhiêu phong trào chống Pháp, kháng chiến bị văn minh giết người của Pháp vùi dập tơi bời không ? Pháp dạy cho người Việt bắn súng giết người, hại người Việt Nam và giết cả người Pháp, đào tạo trí thức nô lệ.
Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán danh : Tàu ngụy, Pháp ngụy.
â/ Nhật khuynh đảo Pháp ở Việt Nam.
Vũ Trụ Lịch từ 4221 - 4222
Phật Lịch từ 2488 - 2489
Chúa Lịch từ 1944 - 1945, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).
Nhằm thời Khải Ðịnh.
Người Nhật mang theo Thiền đạo, Nhu đạo, Trà đạo, Thần đạo ...
Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán danh Nhật ngụy và có câu "Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật".
b/ Nhật chia chác quyền lợi xứ Ðông Dương cho Mỹ, Anh, Pháp, Nga.
Pháp công khai trở lại đô hộ Việt Nam. Mỹ tham gia ngấm ngầm ở bên trong hậu trường tà loạn ác độc và Nga Chệt cũng manh nha tham gia rầm rộ.
Thời kỳ Pháp ngụy bộ mặt mới :
Vũ Trụ Lịch từ 4222 - 4231
Phật Lịch từ 2489 - 2498
Chúa Lịch từ 1945 - 1954, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).
Thời Khải Ðịnh, Bảo Ðại, Ngô Ðình Diệm với Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Thiệu với Tôn Ðức Thắng.
Người Việt Nam còn bị và được nhập cảng văn hóa, văn minh tây phương lần thứ hai do Nga Mỹ mang đến. Dĩ nhiên lần này cực kỳ tinh vi, gian dối hơn, tàn bạo ác độc hơn, tối tân, man rợ hơn với những chiêu bài Ðại đồng, Vô thần, Hữu thần, Tư bản, Cọng sản, Vô sản, Hữu sản. Các học thuyết ngu si Karl Marx, Lenine, Paul Sartre, Hegel, Engel, Kant, Descartes, Camus, Heideyger. Các tôn giáo Thiên chúa, Tin Lành, Bahai, đạo Dừa ... để đầu độc cùng với những xảo ngữ khôngh bao giờ thực hiện và cũng chẳng làm sao thực hiện được như : Dân làm chủ (dân cóc có làm chủ), Tự do (dân cóc có tự do).
Họ dạy bắn súng tốt, bắn súng giỏi (bắn người Việt Nam và cả ngoại bang)
4.- Phải chăng kiếp người Việt Nam chúng ta là Việt gian mà không Việt ngay, Việt cong mà không Việt thẳng ?!
Ðáp :
Có Việt ngay mà cũng có Việt gian rất đúng lúc. Trong âm dương đức tính ngụy ấy lại có Việt tính nhiều Ngụy tính ít và Ngụy tính nhiều Việt tính ít. Chính nghĩa nhân dân, dân tộc vốn sẵn có trong lòng dân tộc Việt Nam, được lưu dấu, lưu truyền và sẽ vùng lên thật hùng mạnh khi có chủ trương, chủ xướng, chủ nghĩa rõ rệt, đúng lúc.
Cho tới bao giờ nhân dân Việt Nam mới hết bị và được gán danh Nguỵ này, Nguỵ kia, Nguỵ nọ ? Cho tới bao giờ nhân dân, dân tộcViệt Nam mới có chủ trương, chủ xướng cho thật rõ rệt ?
Xin trân trọng đáp rằng : Đã hết thời Ngụy rồi. Tại sao ?
· Ðã cùng cực Ngụy, không thể nào và không làm sao mà ngụy hơn được nữa (đầy đủ mặt ngụy rồi).
· Thời kỳ đúng lúc nhân dân, dân tộc Việt Nam trở về nguồn (thời chán ngấy chạy theo chủ trương, chủ nghĩa của ngoại bang, bớt động tĩnh theo kiểu giao mạng, ỷ lại). Đồng thời ngoại bang chán ngấy nhân dân Việt Nam vì đã đến thời nhân dân Việt Nam có chủ trương, chủ xướng rő ràng thuộc văn vő, đã công khai tuyên bố khắp cùng cả nhân loại.
· Nhân dân Việt Nam phải có ngày nay như thế mới được.
· Thời Việt Nam Kỷ Nguyên Mới với 09 Phân Khoa đáp ứng đúng lúc và đúng nhu cầu nhân loại khoa học ngày nay : Văn Vő.
· Nhân dân Việt Nam cần phải biết giá trị của nhân dân Việt Nam đă chịu đựng cho nhân loại trong truông Võ Văn xâm lăng như sau :
Trung Hoa :
Một xứ đất rộng người đông bậc nhất trên hành tinh địa cầu nhân loại, đã bị Bát Quốc Liên Quân, tức là 8 nước liên kết quân đội lại, vây đánh. Và gần đây vấn đề Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông : đó là vấn đề Á Âu Âu Á (da trắng đánh da vàng).
Việt Nam :
Cũng trong truông da trắng đánh da vàng :
· Mượn da vàng làm công cụ.
· Mượn danh từ Cọng sản, Tư bản để phỉnh gạt giết hại hơn 10 triệu sinh linh người Việt trong 30 năm qua.
· Sự giết người tàn bạo quá lâu dài và xúi giục cho người Việt Nam đánh giết lẫn nhau : vấn đề Á Âu Âu Á.
Vài chục quốc gia, chạy theo chủ trương của Tàu Tây Nga Mỹ, a tùng vào việc giết hại người Việt. Vài chục nước liên hệ chứ không phải 8 nước liên kết quân sự.
Chí khí hùng mạnh của Việt Nam đă chịu đựng.
+ Sự kiện đó, hiện tượng đó được ví như biển cả văn minh vật chất tây phương (Tàu Tây Nga Mỹ) đem văn minh Võ Văn giết người và đă giết người Việt Nam về tới tận sông rạch khe nguồn tại lòng đất Việt Nam ở Phương Ðông châu Á suốt dọc từ Nam chí Bắc : giá trị Việt Nam, xương máu trí não.
Chính thời lúc đó, ngay tại lòng đất Việt Nam nhỏ bé lại được và bị đạo Thiên Ðịa Cực (Âm Dương Dương Âm Cực) là lý do khiến cho có vấn đề Việt Nam đáp ứng đúng lúc, đúng nhu cầu nhân loại là khai mở Kỷ Nguyên Mới, khôi phục nền văn minh Âm Dương Học Ngàn Xưa : Văn Minh Âm Dương Rồng Tiên.
+ Sự kiện này, hiện tượng này được ví như biển cả văn minh đông phương đă vươn lên, tinh thần đông phương khởi sáng trở lại tại lòng đất Việt Nam. Tức là Việt Nam khai nguyên văn minh Văn Vő, từ đó tự nhiên đổ ngược trở về tới các sông rạch khe nguồn của bất kể quốc gia nào trên hành tinh địa cầu nhân loại, bất kể Á Âu.
Chủ trương Việt Nam đã rő rệt.
+ Người Việt Nam khai mở Kỷ nguyên mới đánh dấu Võ Văn CựcVăn Võ khởi, chính là nhân dân Việt Nam làm cái việc : khôi phục Văn Minh Âm Dương Rồng Tiên. Sáng tạo, sáng tác 09 Phân khoa Quốc tế Nhân loại (văn minh Văn Võ khởi thịnh do dân tộc Việt Nam khởi xướng).
Từ nay đã rő rệt, Việt Nam có chủ trương, chủ xướng, sinh động, gợi ý, hướng dẫn, học tập 09 Phân Khoa cho nhân dân Việt Nam trước tiên (hợp tình) và cho nhân loại học hỏi kế đó (hợp lý).
Nếu muốn sẽ được học hiểu biết thật rõ ràng Chân Lý muôn đời, nuôn nơi và mãi mãi để xă hội loài người biết động tĩnh, tiến thoái khá hay ho và theo kịp đà tiến thoái của vũ trụ vô hữu không thời biến hóa hóa thành trên hiện thân xã hội loài người.
TÓM TẮT
Tóm lại, Kỷ nguyên mới do dân tộc Việt Nam đã khai mở từ năm Ất Tỵ đến nay là năm Giáp Dần :
Vũ Trụ Lịch từ 4242 - 4251
Phật Lịch từ 2509 - 2518
Chúa Lịch từ 1965 - 1974, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).
Một khi đă gọi là Kỷ nguyên cần phải hiểu rằng : loài người sống động trong vũ trụ vô hữu như một loài cây hoa sống động trên mặt đất, cứ hễ tới mùa thì nó bị và được trổ sinh.
Vậy Kỷ nguyên mới được ví như bông trái mới của nhân loại đă trổ sinh, tức là bông trái của mọi người chứ không phải của riêng ai cả, không riêng cho dân tộc nào cả.
Vậy Kỷ nguyên mới là âm dương tú khí của vũ trụ vô hữu trên hiện thân của nhân loại đă trổ sinh tự nhiên tại Việt Nam, đông phương châu Á trên 10 năm nay rồi.
Bông trái của Kỷ nguyên mới gồm 09 Phân Khoa Quốc Tế Nhân Loại.
Nhân loại được dân tộc Việt Nam cung ứng cho những sở học tân kỳ độc đáo vượt qua mặt tất cả mọi học vấn xưa nay, bất kể đạo lý khoa học nào.
Là thời của Kỷ nguyên Liên Hành Tinh.
Thời nay nhân loại bước vào : VŨ TRỤ ÐẠO.
Thời nay nhân loại bước vào : VŨ TRỤ NGỮ.
Thời nay nhân loại bước vào : KHOA HỌC TỔNG TẬP CỦA LOÀI NGƯỜI.
Thời nay nhân loại bước vào : TRÍ TRI CƠ CẤU.
Thời nay nhân loại bước vào : NHỊP CẦU HUYỀN VI HIỂN HIỆN VÀ CẢM THÔNG TIẾNG NÓI CỦA MUÔN LOÀI VẠN VẬT (= Âm Dương Lý).
Dù muốn dù không thì trên hiện thân xã hội loài người cũng đă trổ sinh như thế. Tại lòng đất Việt Nam, đă có vấn đề nhân loại như vậy. Dân tộc Việt Nam tính sao đây ? Phải làm gì đây trong kiếp sống làm người Việt Nam khi đi ngang qua, trải qua trên hành tinh địa cầu nhân loại ?
Lưu ý :
Khả năng sản xuất sáng tạo kể như đã xong. Còn lại chỉ có vấn đề thời gian để xuất cảng và nhập cảng vào những quốc gia nào cần đến những phân khoa kỷ nguyên mới đó và chúng ta sẽ kết nghĩa đồng minh.
Mặc dù chúng ta, dân chúng, dân tộc Việt Nam, không cần ai tin theo, nghe theo, chạy theo hay làm theo gì cả, nhưng khắp trời Á Âu đã tự ý hành động rầm rộ học ngôn ngữ Việt từ trung đến đại và cao học mà chúng ta không có quyền gì cấm cản họ được.
Hiện tượng đó có nghĩa là nhân loại đã mặc nhiên chấp nhận và cất bước vào Kỷ nguyên liên hành tinh. Học ngôn ngữ Việt tức cất bước để rồi sẽ học hiểu cho được về 09 phân khoa của Việt Nam sáng tạo và chủ xướng.
VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI